CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ CÁC VẤN ĐỀ CẦN HƯỚNG DẪN THI HÀNH

CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ CÁC VẤN ĐỀ CẦN HƯỚNG DẪN THI HÀNH

1. Khái quát
1.1. Khái niệm
Trong quan hệ pháp luật dân sự, nghĩa vụ dân sự là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền chủ thể của bên kia.
Điều 274 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”.
1.2. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự 
Chuyển giao nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có nghĩa vụ không tự mình thực hiện nghĩa vụ đã giao kết mà chuyển giao cho người khác (người thế nghĩa vụ) thực hiện nghĩa vụ giữa mình với bên mang quyền với điều kiện có sự đồng ý của chủ thể đó. Người có nghĩa vụ đã chuyển giao chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với bên mang quyền và không phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ.
Như vậy, về bản chất, sự chuyển giao nghĩa vụ dân sự là sự chuyển dịch nghĩa vụ pháp lý từ chủ thể chuyển sang chủ thể nhận. Chủ thể nhận nghĩa vụ chính là người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước và trở thành bên có nghĩa vụ. Khi chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm đó cũng chấm dứt do sự chấm dứt tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Quy định của pháp luật về chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo BLDS năm 2015
2.1. Điều kiện chuyển giao nghĩa vụ dân sự
Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chuyển giao nghĩa vụ dân sự:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm chấm dứt quan hệ giữa bên có nghĩa vụ ban đầu với bên có quyền làm phát sinh nghĩa vụ của người nhận chuyển giao với bên có quyền đó. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ đó vẫn phải gắn với lợi ích của bên có quyền nên mặc dù được chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba nhưng phải thỏa mãn các điều kiện sau:
(1) Điều kiện thứ nhất: Nghĩa vụ được chuyển giao phải là nghĩa vụ có hiệu lực pháp lý và không thuộc những trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao nghĩa vụ.
Theo quy định của pháp luật, không được phép chuyển giao nghĩa vụ dân sự trong trường hợp nghĩa vụ “gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ” hoặc pháp luật quy định không được chuyển giao (như trường hợp nghĩa vụ đang có tranh chấp). Các trường hợp nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao như nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc các bên đã thỏa thuận phải do chính người đó thực hiện.
(2) Điều kiện thứ hai: Việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự phải có sự đồng ý của bên có quyền, vì suy cho đến cùng, việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ và việc lựa chọn người gánh vác nghĩa vụ thay thế cho người trước đó chính là lựa chọn rủi ro cho người mang quyền. Do vậy, pháp luật quy định bắt buộc phải có sự đồng ý của bên có quyền nhằm loại bỏ rủi ro đó.
2.2. Hình thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về hình thức chuyển giao nghĩa vụ.
Tuy nhiên, nhằm tránh những nguy cơ có thể dẫn đến những rủi ro liên quan đến quyền lợi của các bên trong chuyển giao nghĩa vụ dân sự, những nội dung chuyển giao và cách thức, trình tự chuyển giao nên được trình bày đầy đủ trong văn bản thỏa thuận giữa các bên.
Những trường hợp mà nội dung hoặc đối tượng của nghĩa vụ chuyển giao có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp hay đối tượng của nghĩa vụ là những tài sản do Nhà nước quản lý, kiểm soát thì việc chuyển giao nghĩa vụ cần phải được thể hiện bằng văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép.
2.3. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Điều 371 Bộ luật Dân sự năm 2015, chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được quy định như sau: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trường hợp nghĩa vụ được chuyển giao, các biện pháp bảo đảm xác lập nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cũng đương nhiên chấm dứt, bởi vì biện pháp bảo đảm đó là bảo đảm cho chính hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Bởi vì, việc chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế nghĩa vụ sẽ làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt, bên thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với bên có quyền. Mặt khác, việc chuyển giao nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền, khi đó bên có quyền tự lựa chọn rủi ro cho chính mình trong việc chấp nhận bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi kèm theo biện pháp bảo đảm trong quan hệ nghĩa vụ trước đó thì khi chuyển giao cho bên thứ ba biện pháp bảo đảm này phải chấm dứt nếu không có sự thỏa thuận khác.
2.4. Phương thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự
(1) Phương thức chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
Để có thể chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận thì cần có sự thống nhất ý chí của người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ.
Sẽ không có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận nếu người thế nghĩa vụ không đồng ý về việc này, họ sẽ không trở thành người có nghĩa vụ đối với người có quyền nếu họ không đồng ý.
Chuyển giao nghĩa vụ do đó là một thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ nhằm thực hiện một nghĩa vụ đang tồn tại vì lợi ích của người có quyền và làm chấm dứt trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền.
(2) Phương thức chuyển giao nghĩa vụ theo pháp luật
Pháp luật hiện hành còn có những quy định cho chuyển giao nghĩa vụ dân sự mà không có sự thỏa thuận hay ưng thuận nêu trên.
Cụ thể, theo quy định của Bộ luật Dân sự, khi cá nhân chết, nghĩa vụ về tài sản của cá nhân không đương nhiên chấm dứt và vấn đề xác định người thế nghĩa vụ được đặt ra.
Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”; và khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, khi những người thừa kế nhận di sản thừa kế thì phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản mà người chết để lại. Việc chuyển giao nghĩa vụ trong trường hợp này không cần có sự ưng thuận của những người liên quan.

 

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *