ĐẠI HỘI THÀNH LẬP HIỆP HỘI CÔNG CHƯNG VIÊN VIỆT NAM
PHẦN THỨ I
CÔNG CHỨNG VIỆT NAM – CHẶNG ĐƯỜNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
- Sự hình thành và phát triển
Công chứng Việt Nam còn rất non trẻ so với công chứng các nước phát triển trên thế giới. Sự hình thành và phát triển của công chứng Việt Nam gắn liền với các giai đoạn của lịch sử nước ta. Đến nay Công chứng Việt Nam đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Hoạt động của nghề công chứng đã góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, nhằm tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, vào tiến trình xây dựng Nhà nước và pháp quyền đang diễn ra trên khắp đất nước ta. Đến nay, Công chứng Việt Nam đã đủ điều kiện chín mùi để thành lập Hiệp hội công chứng chứng viên Việt Nam – là tổ chức xã hội nghề nghiệp của các công chứng viên – đồng thời là mái nhà chung của tất cả công chứng viên trên cả nước.
Để thấy được những bước phát triển của nghề công chứng, chúng ta cùng nhìn lại với lịch sử hình thành và phát triển của chế định công chứng tại Việt Nam.
Chế định công chứng xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ 19. Văn bản công chứng đầu tiên do công chứng viên người Pháp lập tại Việt Nam vào năm 1862. Rõ nét nhất kể từ thời điểm năm 1931 là thời điểm khai sinh chế định công chứng nước ta, đánh dấu bằng sự ra đời của Sắc lệnh ngày 24/08/1931 do Tổng thống Cộng hòa Pháp ban hành về tổ chức công chứng được áp dụng ở Đông Dương theo Quyết định ngày 07/10/1931 của Toàn quyền Đông Dương P. Pasquies, thì đến nay chế định công chứng Việt Nam mới có gần 80 năm lịch sử – tuổi đời còn non trẻ so với những nước phát triển trên thế giới. Trong suốt nhiều thập kỷ, đất nước Việt Nam luôn trong tình trạng chiến tranh, chia cắt; vì vậy quá trình phát triển chế định công chứng nước ta trải qua rất nhiều thăng trầm và là đó là điều tất yếu phải trải qua.
Kể từ năm 1931, chế định công chứng vẫn tiếp tục được duy trì và có một vài bước phát triển nhất định, với cơ sở pháp lý là Dụ số 43 ngày 29/11/1954 do Quốc trưởng Bảo Đại ban hành ấn định quy chế chung cho ngạch chưởng khế.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và thiết lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 về việc ấn định thể lệ thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 quy định thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất đã chính thức đặt nền móng cho hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta. Kể từ đó, trong thời kỳ chiến tranh và xây dựng lại đất nước ở Miền Bắc – với đặc thù là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy, chế định công chứng hầu như không hiện diện trong hệ thống pháp luật trong suốt một thời gian dài. Các công việc có liên quan ít nhiều đến lĩnh vực công chứng được giao cho cho hệ thống cơ quan hành chính như ủy ban hành chính cấp có thẩm quyền thực hiện.
Trong thời kỳ đầu đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, hoạt động công chứng của nước ta bắt đầu được kiện toàn và phát triển với sự ra đời của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng, chứng thực như: Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng nhà nước, Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng, Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về công chứng Nhà nước của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), sau đó là Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực. Thời kỳ này, hoạt động công chứng và chứng thực luôn gắn liền với nhau và cùng được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật.
Khởi đầu vào năm 1988, Phòng công chứng thành phố Hồ Chí Minh (tiền thân của Phòng công chứng số 1 TP.HCM hiện nay) là tổ chức công chứng đầu tiên trong cả nước được thành lập chỉ có 02 công chứng viên và 02 nhân viên.
Tại Hà Nội, Phòng công chứng số 1 Hà Nội được thành lập năm 1989 với 04 công chứng viên và 03 nhân viên.
Ở các tình, thành phố khác trên cả nước thì các Phòng công chứng Nhà nước từng bước được thành lập và đi vào hoạt động.
- 2. Tổ chức, hoạt động công chứng theo quy định của pháp luật
Khởi đầu bằng Thông tư 574 năm 1987 và tiếp theo là các Nghị định 45 năm 1991, Nghị định 31 năm 1996 đều xác định, theo hướng liệt kê một cách cụ thể, rõ ràng những việc công chứng viên được phép làm. Tuy nhiên phạm vi còn hạn chế. Đến năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực, thì phạm vi công chứng có sự thay đổi theo hướng mở rộng hơn rất nhiều. Theo đó, công chứng bên cạnh được chứng nhận các hợp đồng giao dịch theo quy định của pháp luật phải công chứng, còn được chứng nhận các việc khác mà cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu. Đồng thời, cũng từ Nghị định này, việc công chứng và việc chứng thực mới được phân biệt một cách rõ ràng hơn.
Tại thời điểm này tốc độ phát triển kinh tế Việt Nam khá nóng, dân số phát triển khá cao ( nhất là dân số cơ học tại các thành phố lớn), quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng…nên hợp đồng giao dịch cần công chứng ở một số địa phương đã quá tải. Thực tiến đòi hỏi cần có sự thay đổi mạnh mẽ hơn để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Điều quan trọng nhất đó chính là việc ban hành văn bản pháp luật.
Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật công chứng với định hướng rất lớn là xã hội hóa hoạt động công chứng. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về công chứng, đưa hoạt động công chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Luật công chứng năm 2006 đánh dấu bước phát triển mới trong tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta, thực hiện chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ công chứng. nhằm tạo điều kiện cho công chứng Việt Nam phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về công chứng, đưa hoạt động công chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự đan xen hai hình thức tổ chức hành nghề công chứng là Phòng công chứng và Văn phòng công chứng tạo điều kiện phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức trong xã hội; người dân có thêm sự lựa chọn khi có yêu cầu công chứng.
Sau 05 năm thi hành Luật Công chứng 2006, năm 2012, Bộ Tư pháp tổ chức tổng kết và đưa ra kết quả khá ấn tượng:
– Về tổ chức hành nghề công chứng: cả nước có 625 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 138 Phòng công chứng và 487 Văn phòng công chứng. Đã có 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có Văn phòng công chứng theo chủ trương xã hội hoá. So với thời điểm trước khi Luật công chứng có hiệu lực thi hành, cả nước phát triển thêm được 484 tổ chức hành nghề công chứng. Như vậy, số tổ chức hành nghề công chứng tại thời điểm này, tuy chỉ mới 05 năm nhưng đã tăng 4,77 lần so với sự phát triển của 20 năm, trước khi Luật công chứng có hiệu lực.
– Về kết quả: các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đã công chứng được 6.964.014 việc; tổng số phí công chứng thu được là 2.577.497.952.000 đồng (Hai nghìn năm trăm bảy mươi bảy tỉ bốn trăm chín mươi bảy triệu chín trăm năm mươi hai nghìn đồng); tổng số thù lao công chứng thu được là 176.190.662.000 đồng (Một trăm bảy mươi sáu tỉ một trăm chín mươi triệu sáu trăm sáu mươi hai nghìn đồng); tổng số tiền nộp thuế và nộp ngân sách nhà nước là 977.415.407.000 đồng (Chín trăm bảy mươi bảy tỉ bốn trăm mười lăm triệu bốn trăm linh bảy nghìn đồng).
Sau bảy năm thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn triển khai thực hiện Luật công chứng năm 2006 cũng bộc lộ nhiều quy định của Luật đã không còn phù hợp hoặc còn thiếu so với thực tiễn. Trước yêu cầu thực tiễn của hoạt động công chứng và để tiếp tục thể chế hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động công chứng, đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ thành viên của Liên minh công chứng quốc tế, Luật công chứng mới đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 20/6/2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015.
Luật Công chứng năm 2014 tập trung quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, phát triển các tổ chức hành nghề công chứng quy mô lớn, hoạt động ổn định, bền vững, nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Luật Công chứng 2014 có nhiều quy định mới tác động đến tổ chức và hoạt động công chứng, chế độ hành nghề của công chứng viên. Tinh thần của Luật là tiếp tục phát triển mạnh mẽ xã hội hóa hoạt động công chứng, nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ công chứng viên để ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới và hội nhập quốc tế; tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên; bồi dưỡng nghề công chứng đối với đối tượng miễn đào tạo nghề công chứng, miễn tập sự; kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; chuyển nhượng, sáp nhập, hợp nhất Văn phòng công chứng, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên… Số lượng các văn phòng công chứng, đội ngũ công chứng viên, số lượng việc công chứng trong cả nước cũng như số tiền nộp ngân sách gia tăng vượt bậc.
Sau 03 năm kể từ ngày 01/01/2015 (thời điểm Luật công chứng năm 2014 có hiệu lực) đến hết 6 tháng đầu năm 2017, các tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước đã thực hiện công chứng 11.032.916 việc, thu phí công chứng 3.412.496.126.206 (ba nghìn bốn trăm mười hai tỷ bốn trăm chín mươi sáu triệu một trăm hai mươi sáu nghìn hai trăm linh sáu đồng), nộp ngân sách nhà nước hoặc nộp thuế 792.327.668.655 (bảy trăm chín mươi hai tỷ ba trăm hai mươi bảy triệu sáu trăm sáu mươi tám nghìn sáu trăm năm mươi lăm đồng).
Hiện nay ( đến hết tháng 6/2018) cả nước có tổng số 1003 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có có 133 Phòng công chứng và 870 Văn phòng công chứng với 2.418 công chứng viên đang hành nghề. Có 62/63 tỉnh, thành ( trừ Lai Châu) đã có Văn phòng công chứng.
Luật công chứng được ban hành và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, đặc biệt là việc xã hội hóa nghề công chứng được triển khai mạnh tại các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển như: thành phố Hà Nội (hiện nay có 112 Văn phòng công chứng), thành phố Hồ Chí Minh (79 Văn phòng công chứng), tỉnh Thanh Hoá (38 Văn phòng công chứng), tỉnh Nghệ An (29 Văn phòng công chứng), tỉnh Đồng Nai (23 Văn phòng công chứng)… Các Văn phòng công chứng được thành lập theo chủ trương xã hội hóa đã từng bước hoạt động ổn định. Một số Văn phòng công chứng có quy mô khá lớn với gần 10 công chứng viên. Việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp gắn với địa bàn dân cư theo chủ trương xã hội hóa đã tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng. Các Phòng công chứng đã nắm bắt nhanh các quy định của Luật công chứng, đổi mới phương thức làm việc phù hợp với xã hội hóa hoạt động công chứng.
Đội ngũ công chứng viên phát triển mạnh tại các thành phố lớn và các tỉnh có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… (hiện tại thành phố Hà Nội có 460 công chứng viên, thành phố Hồ Chí Minh có 383 công chứng viên). Số lượng công chứng viên tại các tỉnh thành khác cũng có sự gia tăng, tuy vẫn còn 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có số lượng công chứng viên dưới 10 người.
Tuy nhiên, sự gia tăng số lượng việc yêu cầu công chứng tại các địa phương có sự chênh lệch nhất định. Điều này xuất phát từ việc hoạt động công chứng có mối liên hệ chặt chẽ với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương. Một số tỉnh, thành phố lớn có số lượng yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch tương đối cao như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu… Trong khi đó, một số địa phương như Bắc Kạn, Lai Châu, Tuyên Quang… yêu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch không nhiều, do vậy, chưa tạo được động lực xã hội hóa hoạt động công chứng tại các địa bàn này.
Nhìn lại chặng đường sau 20 năm – kể từ khi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động công chứng được ban hành đến nay, hoạt động công chứng trên cả nước đã trải qua các thời kỳ phát triển mang nhiều dấu ấn sâu sắc và ngày càng lớn mạnh. Hoạt động công chứng được đánh giá là có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ đất nước đổi mới và những năm tiếp theo. Hình ảnh công chứng Việt Nam đã được các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài biết đến như địa chỉ tin cậy trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch. Đội ngũ công chứng viên ngày càng được đào tạo bài bản, có trình độ vững vàng, tâm huyết, luôn trau dồi đạo đức nghề nghiệp và ngày càng được xã hội thừa nhận và tin cậy.
- Tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên
Luật công chứng 2014 đã quy định về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên. Sau một thời gian ngắn thực hiện Luật công chứng thì một số tỉnh, thành phố lớn đã đủ điều kiện để thành lập Hội công chứng viên. Hội có nhiệm vụ đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công chứng viên; duy trì các chuẩn mực đạo đức hành nghề công chứng; được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, công khai, minh bạch, phi lợi nhuận, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Hội công chứng viên. Các hội công chứng được thành lập và đi vào hoạt động đã mang lại những hiệu quả nhất định cho các hội viên trong quá trình hành nghề như: tư vấn về nghiệp vụ, quản trị văn phòng, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp cho các hội viên trong các giai đoạn tố tụng, khiếu nại, tố cáo…cũng như tham gia vào những công tác cần thiết khác liên quan đến hội viên. Hoạt động của các Hội công chứng ngày càng đi vào nề nếp, hiệu quả, là chỗ dựa tin cậy cho các hội viên.
Hội công chứng viên còn tham gia xây dựng pháp luật liên quan đến công chứng; Phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tính đến nay đã có 50 Hội công chứng viên đã được thành lập trên cả nước.
Do sự phát triển mạnh mẽ của Công chứng Việt Nam, mặc dù chưa có Hiệp hội, song Liên minh công chứng quốc tế đã kết nạp Công chứng Việt Nam là thành viên thứ 84 vào ngày 09/10/2013 tại Lima – Peru. Từ đó, Công chứng Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một hội viên, chẳng hạn như việc: đăng cai tổ chức Hội thảo quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Công chứng và Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất” năm 2014 tại thành phố Hồ Chí Minh; Tổ chức Hội nghị thường niên lần thứ sáu của Ủy ban Các vấn đề Châu Á(CAAs) thuộc Liên minh công chứng quốc tế (UINL) năm 2016, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Tham dự các hội nghị toàn thể, hội nghị chuyên đề của UINL và Ủy ban châu Á (tại các nước: Mông cổ, CH Sec, CH Pháp, Indonesia, Nhật Bản, Trung Quốc, Achentina) để bầu Chủ tịch UINL và các chức danh lãnh đạo nhiệm kỳ 2016-2019, bầu Chủ tịch luân phiên hàng năm của Ủy ban châu Á; Ký các thỏa thuận hợp tác công chứng giữa các địa phương giữa Việt Nam và Cộng hòa Pháp.
Như vậy, đến nay Công chứng Việt Nam đã có đủ các điều kiện cần thiết để thành lập Hiệp hội công chứng viên toàn quốc. Ngày 02/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 132/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thành lập hiệp hội công chứng Việt Nam; Ngày 01/08/2017, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1224/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Đề án thành lập hiệp hội công chứng Việt Nam; Ngày 26/03/2018, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 497/QĐ-BTP về việc thành lập Ban chỉ đạo Đại hội đại biểu công chứng viên toàn quốc lần thứ nhất do Thứ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban; Ngày 04/05/2018, Thứ trưởng, Trưởng ban chỉ đạo Đại hội đã ký Quyết định số 991/QĐ-BCĐ về việc ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện Đề án thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam; Ngày 02/07/2018, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1491/QĐ-BTP về việc thành lập Ban vận động thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam, với 20 công chứng viên, do công chứng viên Tuấn Đạo Thanh, Phó Chủ tịch Hội công chứng viên thành phố Hà Nội làm Trưởng ban. Công tác chuẩn bị tổ chức Đại hội đã được tiến hành khẩn trương theo đúng Kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Việc thành lập Hiệp hội công chứng Việt Nam có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động của công chứng Việt Nam như:
– Góp phần hoàn thiện hệ thống tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên từ Trung ương đến địa phương, thực hiện có hiệu quả hơn sự kết hợp quản lý Nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên;
– Hiệp hội công chứng viên Việt Nam là đầu mối thống nhất đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các Hội công chứng viên và của các công chứng viên trên cả nước phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Điều lệ Hiệp hội và quy định của pháp luật;
– Hiệp hội công chứng viên Việt Nam sẽ tham gia ý kiến tư vấn, phản biện có hiệu quả hơn trong quá trình xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công chứng, qua đó góp phần tạo điều kiện cho công chứng Việt Nam phát triển ổn định và bền vững;
– Hiệp hội công chứng viên Việt Nam sẽ là sự kết nối giữa các Hội công chứng viên địa phương, giữa các công chứng viên của cả nước để cùng nhau phối hợp hoạt động, cùng nhau giám sát việc tuân theo pháp luật, tuân theo đạo đức hành nghề, cùng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc …qua đó sẽ thúc đẩy sự gắn bó, đoàn kết giữa các địa phương, giữa các công chứng viên, phát triển đội ngũ công chứng viên cả về số lượng, chất lượng, đồng thời tạo điều kiện cho công chứng viên hành nghề chuyên nghiệp hơn, hiệu quả hơn;
– Hiệp hội công chứng viên Việt Nam là cầu nối giữa công chứng viên với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước, mở rộng giao lưu giữa công chứng Việt Nam với công chứng của các nước. Hiệp hội công chứng viên Việt Nam với tư cách là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên trong phạm vi cả nước, có vai trò hỗ trợ chính cho các thành viên của mình trong việc giao lưu, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm trong hành nghề công chứng; quảng bá hình ảnh, vai trò của công chứng viên Việt Nam với bạn bè trong khu vực và thế giới…
PHẦN THỨ II
THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
- Thuận lợi và khó khăn
1.1.Thuận lợi:
Công chứng Việt Nam đã đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận và ngày càng lớn mạnh là do đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền. Sự quan tâm đó được cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản pháp luật về công chứng qua các thời kỳ. Thể chế về công chứng đã được xây dựng tương đối vững chắc, toàn diện hơn trong hệ thống pháp luật hiện hành. Bên cạnh Luật công chứng năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhiều đạo luật quan trọng liên quan đến công chứng như Luật đất đai (sửa đổi), Luật nhà ở (sửa đổi), Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Luật Hộ tịch… đã được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công chứng viên hành nghề.
Công chứng Việt Nam có nền tảng quan trọng là đội ngũ Công chứng viên đã được phát triển từ năm 1987 dày dạn kinh nghiệm. Họ vừa hành nghề công chứng, vừa truyền bá kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề cho lớp công chứng viên sau này. Đó là đội ngũ công chứng viên đông đảo đang hành nghề tại trên một nghìn tổ chức hành nghề công chứng cả nước, rất tâm huyết với nghề nghiệp, là nguồn sức mạnh cho hoạt động công chứng trong hiện tại và những năm tiếp theo.
Trong quan hệ quốc tế: Do có sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện nên Công chứng Việt Nam đã được Liên minh Công chứng Quốc tế kết nạp là thành viên thứ 84 từ năm 2013, vì vậy Công chứng Việt Nam ngày càng có cơ hội học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác nghiệp vụ trong khu vực và trên thế giới.
Nhìn vào kết quả đã đạt được của Công chứng Việt Nam được nêu trong Báo cáo này, với những tiềm năng của mình, chúng ta nhận thấy rằng: trong tương lai gần, sẽ có nhiều tổ chức hành nghề công chứng được thành lập, nhiều công chứng viên mới được bổ nhiệm; các việc được công chứng năm sau luôn cao hơn năm trước, việc nộp thuế hoặc đóng góp cho ngân sách Nhà nước mỗi năm không ngừng tăng lên…đó là nền móng quan trọng cho sự phát triển của Công chứng Việt Nam trong gia đoạn tới.
1.2. Khó khăn
Tuy nhiên, trước mắt chúng ta vẫn còn những khó khăn nhất định, ở một góc độ nào đó cũng có thể được xem là những thách thức đối với hoạt động công chứng trong những năm tiếp theo, đó là:
– Theo quy hoạch, đến năm 2020, cả nước có 1.000 tổ chức hành nghề công chứng. Tuy vậy, đến hết tháng 6/2018, cả nước đã có 1003 tổ chức hành nghề công chứng, nhưng việc phân bổ các TCHNCC không đồng đều như quy hoạch, mà chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, đông dân, giao dịch dân sự nhiều, trong khi một số tỉnh, dù địa phương có kêu gọi, khuyến khích, nhưng vẫn không có Văn phòng công chứng được thành lập (thậm chí có tỉnh, đến nay, chưa có Văn phòng công chứng nào).
– Do Tổ chức hành nghề công chứng tập trung nhiều ở các đô thị, nên tình trạng cạnh tranh xảy ra ngày càng quyết liệt. Bên cạnh sự cạnh tranh mang tính tích cực, như cải tiến quy trình, tinh thần, thái độ tiếp khách, giờ giấc làm việc…để tạo thuận lợi cho khách hàng thì việc cạnh tranh không lành mạnh đã đang xảy ra tương đối phổ biến như: trích % cho khách hàng, cho ngân hàng; đặt địa điểm không đúng quy định; thậm chí giảm cả phí công chứng để thu hút khách hàng…
– Theo quy định của Luật Quy hoạch (được Quốc hội ban hành năm 2018) thì đầu năm 2019, sẽ không còn quy hoạch trong việc thành lập Văn phòng công chứng. Việc này tác động rất nhiều đến tâm tư, suy nghĩ của công chứng viên đang hành nghề, Sự lo lắng liên quan tới việc không biết sau này tình hình Tổ chức hành nghề công chứng sẽ phát triển như thế nào? Nhà nước kiểm soát đến đâu? tương lai nghề nghiệp sẽ ra sao?…
– Thực tiễn hành nghề cho thấy tính phức tạp, rủi ro cao của nghề công chứng đang tông tại như: tình trạng giả mạo chủ thể, giả mạo giấy tờ trong hoạt động công chứng ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi, thậm chí trắng trợn, công khai hơn những năm trước; Hơn nữa, tình trạng các văn bản công chứng bị Tòa án tuyên vô hiệu trong những trường hợp này ngày càng nhiều, có khi cùng một vụ việc nhưng các cấp xét xử khác nhau lại có các phán quyết rất khác nhau về trách nhiệm của Công chứng viên…Thực trạng đó, đã gây nên tâm lý hoang mang, bất an cho Công chứng viên khi hành nghề.
– Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng của chúng ta còn rất hạn chế, việc kết nối các thông tin liên quan đến dữ liệu công chứng của các địa phương chưa có (thậm chí nhiều tỉnh, thành phố chưa có mạng thông tin về dữ liệu công chứng như: ngăn chặn tài sản, lịch sử giao dịch của tài sản…) nên chắc chắn sẽ có nhiều rủi ro cho công chứng viên khi hành nghề. Quan trọng hơn là việc bảo đảm sự an toàn pháp lý cho chính các Công chứng viên và cả các khách hàng khi tham gia giao dịch vv…
Trước những thuận lợi và khó khăn tiêu biểu kể trên, để nghề công chứng phát triển ổn định, bền vững, hơn lúc nào hết đội ngũ công chứng viên cần tiếp tục phát huy truyền thống, với những kết quả, thế mạnh, lan tỏa kinh nghiệm cho nhau, phát huy vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên, tăng cường đoàn kết gắn bó, để Công chứng Việt Nam thật sự là ngôi nhà chung cùng nhau thực hiện chức năng xã hội mà Nhà nước ủy nhiệm đó là cung cấp dịch vụ công, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế – xã hội; hợp tác và cùng phát triển công chứng với các nước trong khu vực và thế giới đưa hình ảnh Công chứng Việt Nam đến bạn bè quốc tế.
- Phương hướng, nhiệm vụ của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam nhiệm kỳ I và những năm tiếp theo.
2.1. Phương hướng
Trong điều kiện kinh tế – xã hội ở Việt Nam hiện nay, nghề công chứng có rất nhiều cơ hội để phát triển, song còn hiện hữu những khó khăn nội tại mà không dễ để vượt qua, đặc biệt là công tác hội. Vì vậy, xác định được mục tiêu, đề ra phương hướng phù hợp đối với hoạt động của Hiệp hội sau Đại hội là hết sức cần thiết.
Hiệp hội công chứng viên Việt Nam mới được thành lập và phải bắt tay ngay vào hoạt động. Chắc chắn rằng: sẽ có rất nhiều việc mà chúng ta phải thực hiện – đó là những nhiệm vụ mới mẻ mà những Công chứng viên tham gia lãnh đạo Hiệp hội phải thực hiện trong điều kiện chưa có nhiều kinh nghiệm và đặc biệt là sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, bởi hoạt động của Hiệp hội hoàn toàn tự chủ. Vì vậy, sự tâm huyết, tinh thần trách nhiệm rất cao của lãnh đạo Hiệp hội và tất cả các hội viên trên cả nước là hết sức quan trọng, và quan trọng nhất đó chính là sự ủng hộ toàn diện về trí tuệ, công sức, vật chất sẽ giúp cho Hiệp hội có đủ điều kiện để hoạt động, mới đủ khả năng để hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Sau Đại hội, Ban lãnh đạo cần tập trung trí tuệ, hoàn thiện các thủ tục pháp lý cần thiết với các cơ quan có thẩm quyền để phê duyệt Điều lệ, lập các Báo cáo…Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội, xây dựng bộ máy, ban hành các Quy chế; phân công nhân sự vào các vị trí phù hợp với khả năng của từng người…và các công việc cần thiết khác để bộ máy Hiệp hội có thể đi vào hoạt động ngay. Với tầm của Hiệp hội công chứng toàn quốc, để có sự phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta phải có tầm nhìn bao quát mang tính vĩ mô nhưng phải rất cụ thể cho từng giai đoạn, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng khu vực, địa phương với tính đặc thù khác nhau để có thể thiết kế phương thức hoạt động khoa học nhất.
2.2. Nhiệm vụ cụ thể
2.1. Xây dựng, kiện toàn bộ máy của Hiệp hội
Ngay sau Đại hội đại biểu kết thúc, Hội đồng công chứng viên toàn quốc cần họp ngay để bầu Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ban thường vụ; Tiếp theo, Ban thường vụ có sự phân công công việc giữa các thành viên; Dự kiến nhân sự, bộ máy giúp việc và các Ủy ban; Xây dựng kế hoạch, phương hướng, nhiệm vụ công tác quý, năm và những năm sau của các Ủy ban.
2.2. Trụ sở, nhân viên và phương tiện làm việc
Thuê (hoặc mượn trụ sở) đảm bảo tính ổn định tương đối; mua sắm các trong thiết bị cần thiết để hoạt động. Thuê nhân viên văn phòng, kế toán, lưu trữ có thể kiêm nhiệm một các hợp lý, tiết kiệm nhưng hiệu quả.
2.3. Ban hành các quy chế để bảo đảm hoạt động Hiệp hội, nâng cao uy tín trong hoạt động nghề và bảo vệ quyền lợi của Hội viên
Xây dựng các Quy chế hoạt động của Hội đồng công chứng viên, Quy chế hoạt động của Ban thường vụ; Quy chế tài chính, Quy chế hoạt động của các Ban, Văn phòng Hiệp hội; …để bộ máy Hiệp hội phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, hoạt động hiệu quả.
Căn cứ quy định pháp luật đã quy định (Điều 30 Nghị định 29/2015 ngày 15/03/2015 của Chính phủ) nghiên cứu để xây dựng, ban hành quy tắc đạo đức nghề công chứng; Hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát công chứng viên hành nghề.
Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Hội công chứng viên, của công chứng viên liên quan đến thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên…theo quy định pháp luật.
2.4. Đào tạo nghề, bồi dưỡng nghề, hướng dẫn nghiệp vụ về công chứng
– Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng theo quy định;
– Định kỳ hoặc thường xuyên tổ chức Hội thảo, toạ đàm những chuyên đề về pháp luật công chứng nói chung, về các hồ sơ áp dụng cụ thể…để thống nhất nhận thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Hội viên và kiến nghị cơ quan thẩm quyền hoàn thiện pháp luật liên quan đến công chứng.
– Nghiên cứu xây dựng để có nhiều hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ khác nhau (không chỉ là tập trung nghe báo cáo như các năm trước) nhằm nâng cao chất lượng và phong phú hình thức trong việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho Công chưng viên hàng năm.
2.5. Đóng góp xây dựng chính sách, pháp luật và giám sát Hội viên trong việc chấp hành pháp luật
– Ban thường vụ tích cực, chủ động hoặc có phương thức huy động trí tuệ tập thể của Công chưng viên để đóng góp xây dựng, phản biện có hiệu quả đối với các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng hoặc liên quan đến hoạt động của Hiệp hội.
– Bằng kết quả hoạt động thực tế của CCV, định kỳ hoăc đột xuất tập hợp để báo cáo, phản ánh cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, hoàn thiện pháp luật liên quan công chứng, từng bước góp phần tạo hành lang pháp lý an toàn cho Công chứng viên khi hành nghề.
– Xây dựng cơ chế để nắm bắt thông tin; thường xuyên thực hiện việc rà soát đội ngũ hội viên, rút tên khỏi Hội đối với các trường hợp không còn đủ tiêu chuần, điều kiện tham gia Hội; Nghiên cứu để có nhiều cách thức, phương pháp giám sát Hội viên khi hành nghề, chấp hành pháp luật, chấp hành Quy tắc đạo đức và Điều lệ của Hiệp hội; Trong nhiệm kỳ có Kế hoạch để có thể tổ chức kiểm tra, giám sát trực tiếp một vài tổ chức hành nghề hoặc một vài Hội công chứng viên cụ thể trong việc thực hiện các nội dung trên.
2.6.Bảo hiểm và bồi thường
– Nghiên cứu đề xuất sữa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về bảo hiểm (mức bảo hiểm, phương thức bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm, đầu mối mua bảo hiểm…) để sát hợp thực tế, góp phần tạo an tâm cho công chứng viên khi hành nghề. Đồng thời nghiên cứu phương án Hội công chứng viên đại diện cho các hội viên mua chung bảo hiểm.
– Nghiên cứu thành lập Quỹ bồi thường thiệt hại của Hiệp hội để hỗ trợ việc bồi thường thiệt hại do lỗi của hội viên khi hành nghề công chứng trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của hội viên không đủ bồi thường (Khoản 5, Điều 30, Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/03/2015 của Chính phủ).
2.7. Từng bước xây dựng các cơ sở dữ liệu công chứng
Điều 62 Luật công chứng có quy định mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa phương mình. Hiện nay, một số địa phương đã có xây dựng cở sở dữ liệu công chứng để hỗ trợ cho hoạt động công chứng. Tuy nhiên, cách làm mỗi nơi một khác, do đó cần hướng dẫn thống nhất, cần kết nối không những công chứng trong cả nước mà kể cả các ngành liên quan như cơ quan thuế, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất…để góp phần bảo đảm an toàn pháp lý, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch.
2.8.Tham gia hoạt động hợp tác về công chứng ở trong nước và quốc tế theo văn bản hợp tác đã ký kết và quy định của pháp luật.
Cuối cùng, thông qua diễn đàn Đại hội này, thay mặt Đoàn chủ tịch chúng tôi kêu gọi các Hội công chứng viên, Công chứng viên trên cả nước, trong điều kiện của mình nhiệt tình ủng hộ cho Hiệp hội trên các lĩnh vực để chúng ta cùng chung vai xây dựng Tổ chức xã hội nghề nghiệp toàn quốc của mình phát triển một cách bền vững.
Trên đây là toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Hiệp hội công chứng viên Việt Nam lần thứ nhất.